Tác giả: LM Anthony Lê Đức, SVD
Kể từ khi loại hình Web 2.0 ra đời, người dùng được trải nghiệm chuyển đổi từ việc xem thông tin cách thụ động sang việc tạo nội dung, tương tác và cộng tác với những người dùng khác,[1] không chỉ tập trung nhận hoặc trao đổi thông tin nhưng hướng đến tương quan nhân bản. Không giống các trang web truyền thống dựa trên chữ, trong đó các nhóm tin tức, danh sách thư từ không làm nổi bật được khía cạnh tương quan của người dùng, các mạng xã hội nhắm đến việc đặt mối tương quan ở trung tâm. Trong mô hình mới này, khái niệm sự hiện diện (presence) được thay bằng kết nối (connection) hay kết nối hỗ tương (interconnection). Nếu không có sự kết nối hỗ tương giữa chúng ta và người khác trên internet, chúng ta chỉ là những thực thể đơn lẻ trên không gian mạng. Thật ra trên Facebook, người dùng có tùy chọn hoặc trở thành “bạn bè” của người khác nếu người đó có trang cá nhân (profile page), hoặc trở thành “người hâm mộ” của ai đó nếu họ có “fan page”. Mặc dù Facebook, Tiktok và WeChat thuộc nhóm những mạng xã hội phổ biến nhất hiện nay, vẫn có hàng trăm mạng xã hội khác được xây dựng để đáp ứng các mục đích, sở thích và văn hóa khác nhau…[2]
Dẫu rằng mô hình web mới nhấn mạnh đến tương quan, nhưng các tương quan trong môi trường này luôn luôn bị giới hạn vì tính đa chiều của các tương quan luôn bị “san phẳng” cách nào đó bởi bản chất của công nghệ. Hệ quả là trên Facebook, bạn cùng lớp, ông bà, cha xứ ở ngoài đời thực cũng như những người ở một thế giới mà bạn chưa gặp bao giờ cũng đều bị thu gọn trong một danh mục “bạn bè”. Còn trên Twitter, tất cả những người bạn nối kết đều là “người theo dõi” của bạn. Cách nào đó những từ ngữ này không chỉ bỏ qua bản chất thực sự của mối tương quan giữa bạn và một người nào đó cụ thể nối kết với bạn, nhưng chúng còn làm sai lệch ý nghĩa của từ “bạn bè” hay “người theo dõi”. Theo Brett McCraken, trong thế giới Facebook, người ta chọn “bạn bè” như một thứ đồ sưu tầm để xây dựng hình ảnh và vị thế xã hội của chính mình. Người ta “kết bạn” trên Facebook hay “theo dõi” ai đó trên Twitter với chủ đích và theo chiến lược, và chúng ta đăng gì đó lên tường của họ hay gắn thẻ họ trong một bài đăng để công khai hóa mối tương quan đó cho mọi người đều biết.[3]
McCraken khẳng định rằng cách người ta đưa các mối tương quan công khai lên thế giới trực tuyến, chia sẻ rộng rãi những thông tin đáng lẽ nên giữ “nội bộ”, và quản lý vi mô các mối tương quan xã hội bằng các bài đăng trên tường của mình hay trạng thái của người khác tạo nên những hành động giả tạo, “mang tính biểu diễn”, làm giảm giá trị các mối tương quan.[4] Đức Thánh Cha Biển Đức cảnh báo trong Sứ điệp ngày Thế giới Truyền thông năm 2009: “Tình bạn đích thực là một trong những điều tốt đẹp nhất mà con người được trải nghiệm. Vì thế cần phải cẩn trọng, đừng bao giờ tầm thường hóa khái niệm hay kinh nghiệm về tình bạn.”[5] Cũng trong sứ điệp ấy, Đức Thánh Cha nhắc đến nguy cơ đầu tư thời gian và năng lực vào những mối quan hệ trực tuyến trong khi quên sót việc nuôi dưỡng các mối tương quan khác trong đời sống:
Thật đáng buồn nếu cái giá phải trả để duy trì và phát triển tình bạn trực tuyến lại là hy sinh sự gắn kết với gia đình, láng giềng và những người chúng ta gặp gỡ trong đời thường, nơi chúng ta làm việc, học hành và giải trí. Nếu bị ám ảnh bởi ước muốn kết nối ảo, người ta có thể cô lập chính mình khỏi những tương tác xã hội thực sự, đồng thời làm xáo trộn thời gian nghỉ ngơi, thinh lặng và suy tư cần thiết cho sự phát triển nhân bản cách lành mạnh.[6]
Quan điểm này dựa trên tư tưởng rằng việc nuôi dưỡng các mối tương quan thực sự cần đến chiều kích tiếp xúc cá nhân và thể lý mà không gian mạng không thể cung cấp. Cả Đức Thánh Cha Biển Đức XVI và vị tiền nhiệm của ngài là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc tiếp xúc trực tiếp giữa con người trong mối tương quan hàng ngày, như đề cập trong các sứ điệp ngày Thế giới truyền thông của các ngài.[7] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhận định: “Các mối tương quan qua trung gian điện tử không bao giờ có thể thay thế sự tiếp xúc trực tiếp giữa người với người.”[8]
Bất chấp những giới hạn của các mối tương quan qua web, thực tế và sự phổ biến của các tương quan đó mời gọi chúng ta không loại bỏ chúng hoàn toàn, nhưng cố gắng nhận biết sự tồn tại của chúng, cũng như tìm cách mở rộng những phạm vi hiện tại để thấu hiểu ý nghĩa đích thực của việc xây dựng mối tương quan với người khác cũng như gọi ai đó là người thân cận của mình. Mặc dù ba vị Giáo hoàng gần nhất đều mời gọi cảnh giác với các mối quan hệ trực tuyến, tất cả ba vị đều hiểu rõ hoàn cảnh thực tế cũng như những cơ hội do những tương quan này có thể tạo ra. Đức Thánh Cha Biển Đức khẳng định rằng hình thức “chuyển tải thông tin và kiến thức này làm nảy sinh cách thức mới để học hỏi và tư duy, với những cơ hội bất ngờ để thiết lập các tương quan và xây dựng tình bằng hữu.”[9] Nó không chỉ tạo điều kiện cho người ta đến với nhau, nhưng còn hỗ trợ việc loan báo Tin Mừng. Đức Thánh Cha Biển Đức kêu gọi các linh mục đang đứng “trước ngưỡng cửa của thời đại mới khi những công nghệ mới tạo ra các hình thức tương quan sâu xa hơn và vượt qua những khoảnh cách lớn hơn, hãy đáp ứng mục vụ bằng cách sử dụng truyền thông cách hữu hiệu hơn bao giờ hết cho việc phục vụ Lời Chúa.”[10]
Từ một góc nhìn cởi mở, chúng ta có thể nhận ra rằng các tương quan trực tuyến không luôn có nghĩa là ước muốn thoát khỏi những mối tương quan thực sự của đời sống, nhưng là một cách tượng trưng cho khát vọng sâu xa của con người là được giao tiếp với người khác. Các ứng dụng internet đa dạng giúp mọi người tham gia xây dựng các mối tương quan, chia sẻ thông tin, trao đổi ý tưởng, tạo ra các hình thức giải trí mới có thể nói được là phản ánh khát vọng nối kết có gốc rễ sâu xa trong tâm hồn con người.[11] Chúng cũng thể hiện nhu cầu mở lòng ra với người khác và tìm sự hiệp thông với họ, một hành động giúp hoàn thành nhân tính của chúng ta.[12] Thời đại kỹ thuật số và các loại tương quan có thể xây dựng trong môi trường này buộc chúng ta tái duyệt xét và định nghĩa thế nào là một người bạn và thân cận.
Dụ ngôn về người Samari nhân hậu của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rằng việc xem ai là người thân cận không dựa trên chủng tộc hay địa vị xã hội, nhưng dựa trên sự sẵn lòng của chúng ta trước người khác. Trong dụ ngôn, một người Do Thái bị tấn công và bị cướp trên đường từ Giêrusalem đi Giêricô. Mặc dù anh ta nằm dở sống dở chết bên vệ đường, cả thầy tư tế và Lêvi đều đi ngang qua mà không đoái hoài. Cuối cùng, một người Samari tình cờ đi ngang qua chỗ nạn nhân và đã cung cấp sự chăm sóc cần thiết nhằm cứu nạn nhân khỏi nguy kịch. Trong xã hội Do Thái, người Samari bị coi thường và tương quan với họ là điều cấm kỵ, trong khi đó các thầy tư tế và Lêvi lại được rất kính trọng, người có học thức và quyền lực. Tuy nhiên, trong dụ ngôn, họ đã thất bại trong việc giúp đồng loại của mình, còn người Samari lại biểu tỏ được lòng trắc ẩn và thương xót với nạn nhân, vượt xa những gì người ta mong đợi nơi anh.
Dụ ngôn người Samari nhân hậu trình bày một mô hình tương quan không bị giới hạn bởi những biên giới nhân tạo do các chuẩn mực văn hóa, xã hội, đạo đức hay tôn giáo áp đặt. Hơn nữa, dụ ngôn ấy còn nhấn mạnh đến những khả năng tạo tương quan của một con tim thấm nhuần lòng bác ái, trắc ẩn và xót thương. Mặc dù câu chuyện được Chúa Giêsu kể từ hai thiên niên kỷ trước, mô hình tương quan mà Ngài đề nghị vẫn không mất đi giá trị của nó qua mọi thời đại, bao gồm cả thời đại kỹ thuật số hiện nay. Nếu có khác thì chỉ là thời đại kỹ thuật số với những cơ hội và giới hạn có thể giúp chúng ta suy nghĩ về mô hình tương quan trong những cách thế mới. Không gian mạng là nơi mọi người trên thế giới với các bối cảnh văn hóa, tôn giáo và xã hội đa dạng có thể đến với nhau và tham gia vào sự trao đổi và chia sẻ hỗ tương; việc xây dựng rộng rãi các mối tương quan trên mạng cũng có thể biện minh cho lập luận rằng, nhu cầu hiệp thông của con người có khả năng và buộc phải vượt qua mọi trở ngại. Nếu tương quan không nên bị giới hạn bởi yếu tố văn hóa, giới tính hay xã hội thì chúng cũng không nên bị kìm hãm bởi khoảng cách dù là vật lý hay kỹ thuật số.
Thời đại kỹ thuật số làm nổi bật mong muốn có người thân cận dù ở bất cứ tuổi nào. Có một số người cho rằng bận tâm với các mối tương quan trực tuyến cản trở chúng ta tìm hiểu về những người sống trong cùng khu phố và ngay cả người đang sống cạnh nhà chúng ta. Tuy nhiên, cũng cần phải đặt câu hỏi: Liệu mối bận tâm với tương quan trực tuyến là nguyên do gây ra khoảng cách với người hàng xóm bên cạnh, hay đó chỉ là kết quả phản ánh về một xã hội mà có nhiều người không hay biết tên người hàng xóm dù đã sống nhiều năm bên cạnh họ? Và vì thế người ta buộc phải đi tìm mối tương quan ở môi trường khác để thay thế cái mà người ta không tìm ra được trong không gian vậy lý?
Đây là vấn đề được gọi là “con gà và quả trứng” – cái nào có trước? Vào những năm cuối của thập kỷ vừa qua, các ứng dụng mạng xã hội dựa trên vị trí Foursquare và Gowalla đã được phát hành. Foursquare là một ứng dụng thông qua mô tả của chính người dùng về sở thích và những nơi thường lui tới cũng như phản hồi của người dùng khác để đưa ra đề xuất về các địa điểm trong khu vực hiện hành.[13] Gowalla, ra đời năm 2007 và đóng lại năm 2012, là một ứng dụng cho phép người dùng check-in những địa điểm mà họ đến.[14] Gowalla sau đó đã được Facebook mua lại,[15] và từ khi đó chức năng check-in đã trở thành một trong những chức năng thịnh hành nhất của Facebook. Việc check-in trên mạng xã hội tiết lộ rõ ràng cho tất cả “bạn bè” của bạn biết sự hiện diện của bạn ở một địa điểm cụ thể, tạo điều kiện cho những cuộc gặp gỡ trực tuyến và cả thể lý nữa.[16] Do đó, việc check-in có thể giúp những người bị xa cách về địa lý hay thiếu thông tin đến với nhau để cùng uống cà phê, xem phim hay hẹn hò nữa. Antonio Spadaro đặt vấn đề: “Cái gì khiến cho người ta liên tục xâm phạm quyền riêng tư của mình để đưa thông tin về sự di chuyển của mình lên thế giới kỹ thuật số của họ?”[17] Spadaro tự trả lời: “Dĩ nhiên điều này diễn tả ước muốn gần gũi, một ước muốn đem thế giới các mối tương quan của chính mình lên mức độ tiếp xúc thực sự” (tác giả thêm chữ in nghiêng).[18] Thật vậy, các ứng dụng mạng xã hội khai thác chức năng định vị và check-in cho thấy rằng trong nền văn hóa đương đại, mong muốn sâu xa có những tương quan ý nghĩa và hiệp thông với người khác tiếp tục định hướng cho sự phát triển công nghệ. Cách nào đó, những tiến bộ kỹ thuật này giúp chúng ta đương đầu với và bù đắp cho thực trạng ngày càng khó tìm được cơ hội để dừng lại trước sân nói chuyện với người hàng xóm hay quy tụ bạn bè, gia đình thường xuyên sau giờ làm việc hay vào dịp cuối tuần.
Mô hình tương quan trong dụ ngôn người Samari nhân hậu nhắc nhớ một điều quan trọng là trở nên người thân cận đòi chúng phải hành xử cách thân cận. Trở nên thân cận rõ ràng là nói về một điều sâu xa hơn là sự gần gũi về mặt thể lý hay sự tham gia vào các cuộc tiếp xúc trực tiếp. Nó nói đến cách người ta đối xử với nhau, đặc biệt trong lúc khó khăn hoạn nạn. Môi trường kỹ thuật số không chỉ giúp chúng ta có thể giữ liên lạc với nhiều người hơn trong xã hội truyền thống, mà còn biết nhiều hơn về đời sống của biết bao người trên thế giới. Thuật ngữ “từ thiện lan truyền” (viral philanthropy) hay “bác ái lan truyền” (viral charity) ra đời trong thời đại internet để mô tả những sáng kiến bác ái trên thế giới trực tuyến, dù có kế hoạch hay tự phát, đã quyên góp được những số tiền khổng lồ cho cá nhân và nhóm người, đôi khi hơn rất nhiều so với mục tiêu ban đầu của kế hoạch. Trong đại dịch virus corona, một khách hàng của cà phê Starbucks ở San Diego, California cố tình hạ nhục nhân viên pha chế tên là Lenin Gutierrez trên tài khoản Facebook sau khi anh ta từ chối phục vụ cô vì cô không đeo khẩu trang theo quy định của công ty. Bài đăng của cô ấy đã thu hút hàng trăm ngàn lượt bình luận, nhưng hầu hết để bảo vệ Gutierrez. Cùng lúc đó, vào ngày 22/06/2020, một cư dân mạng tên là Matt Cowan thuộc Irvine, California, người không biết nhân viên pha chế kia, đã quyết định lập một hộp tiền thưởng trên trang mạng xã hội GoFundMe với tiêu đề “Thưởng cho Lenin đã đấu tranh với San Diego Karen."[19] Dù ý định ban đầu là quyên góp số tiền thưởng 1,000 USD, nhưng số tiền thu được cho đến ngày 20/08/2020 lại lên đến 105,000 USD.[20] Nhận được sự hỗ trợ đầy bất ngờ từ những người hoàn toàn xa lạ, Gutierrez vô cùng biết ơn. Trong một video đăng trực tuyến, nhân viên pha chế trẻ tuổi cho biết anh sẽ dùng số tiền đó để thực hiện ước mơ trở thành một vũ công và dạy múa cho các trẻ em. Sự việc kể trên xem ra đáng ngạc nhiên, tuy nhiên, trong thời đại mạng xã hội, sự việc các chiến dịch từ thiện bất ngờ lan truyền, thu góp được số tiền khổng lồ cho cá nhân và tổ chức ngày nay khá phổ biến.
Trong khi thời đại kỹ thuật số chứng minh sức mạnh và khả năng của tình làng nghĩa xóm, nó vẫn chưa thể đáp ứng mô hình tương quan mà Chúa Giêsu đặt ra. Trong dụ ngôn, trước khi người Samari trả tiền nhà trọ cho nạn nhân giúp anh phục hồi, thì câu chuyện cho chúng ta biết rằng người Samari “đã nhìn thấy nạn nhân và động lòng trắc ẩn. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc.”[21] Từ hành động của người Samari nhân hậu, chúng ta nhận ra rằng việc thực hiện hành động mang tính thân cận có ý nghĩa sâu xa hơn đơn thuần việc bỏ tiền ra để trợ giúp người túng thiếu. Chiếu theo những gì người Samari nhân hậu đã làm, rõ ràng tiền bạc không được xếp đầu tiên trong hệ thống thứ tự. Trở nên thân cận trong mô hình của Chúa Giêsu nghĩa là nhận biết sự hiện diện của ai đó, là nhìn thấy nỗi đau khổ của họ, là động lòng thương với họ. Hơn nữa, nó đòi hỏi cả chiều kích thể lý, như trong dụ ngôn thể hiện qua những hành động đến gần, băng bó vết thương, xức dầu và rượu, đỡ nạn nhân lên lừa và đem về quán trọ. Những hành động cụ thể, gần gũi và trực tiếp này ngụ ý rằng những tương quan đích thực đòi hỏi các khía cạnh thể hiện khác ngoài các khía cạnh như tình cảm và tinh thần. Theo Đức Thánh Cha Phanxicô, hình ảnh của người Samari chăm sóc người bị thương đã biểu lộ được ý nghĩa thực sự của tình thân.[22] Đức Thánh Cha Biển Đức nhắc chúng ta “Luôn luôn phải nhớ rằng tiếp xúc ảo không thể và không được thay thế việc tiếp xúc trực tiếp giữa người với người ở mọi cấp độ của đời sống.”[23] Bởi lẽ chỉ trong giao tiếp trực tiếp, con người mới xức dầu và rượu lên được vết thương của người khác, như trong trường hợp người Samari nhân hậu và nạn nhân người Do Thái, hay mới có thể rửa chân cho người khác như Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ trong Bữa Tiệc Ly. Sự nối kết tình cảm và tinh thần giữa các cá nhân trong môi trường kỹ thuật số phải được bổ xung, cụ thể hóa và hiện thực hóa qua những biểu lộ diễn ra trong không gian thể lý.
Như chúng ta thấy, mặc dù môi trường kỹ thuật số đem lại những khía cạnh mới cho các tương quan liên vị, chúng vẫn có những giới hạn trong việc thể hiện các tương quan đó trong đời sống thực tế. Hơn nữa, khi các tương quan phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của công nghệ và khả năng của con người được tiếp cận với nó, thì sẽ luôn luôn có nguy cơ sự tiếp cận ấy không được bình đẳng, dẫn đến chênh lệch giàu nghèo. Trong kỷ nguyên kỹ thuật số này, sự chênh lệch trong việc tiếp cận được gọi là “khoảng cách kỹ thuật số”, là một vấn đề thực tế trên thế giới cũng như tại Á châu. Người ta ước tính đến tháng 07/2020, số người dùng internet trên thế giới là 4,7 tỷ, chiếm 59% dân số toàn cầu. Tuy nhiên vẫn còn có 41% dân số thế giới không tiếp cận được internet.[24] Những lý do dẫn đến thiếu tiếp cận internet bao gồm thiếu phủ sóng 4G, không thể trả phí dịch vụ, không có nội dung bằng ngôn ngữ mà người dùng có thể hiểu được. Khoảng cách kỹ thuật số dễ thấy trong bối cảnh châu Á. Trong khi Hàn Quốc, Brunei và Nhật Bản có tỷ lệ người dùng internet lần lượt là 96%, 95,3% và 93,8%, dẫn đầu cả ở châu Á lẫn thế giới, thì Bắc Hàn có tỷ lệ chỉ khoảng 0,1%. Afghanistan và Turmenistan có tỷ lệ người dùng internet là 18,8% và 20,9%.[25] Trong khi Singapore xếp thứ hai trên thế giới về Chỉ số sẵn sàng kết nối (NRI), Yemen lại xếp cuối danh sách. Pakistan, Nepal, Campuchia và Lào thuộc số 20 nước có điểm số NRI thấp nhất.[26] Không chỉ có khoảng cách kỹ thuật số trong dân chúng nói chung, còn có khoảng cách lớn liên quan đến giới tính. Tại châu Á, tỷ lệ nam giới truy cập internet là 54,6% vượt nữ giới chỉ có 41,3%.[27] Khoảng cách kỹ thuật số theo giới tính không được cải thiện, mà còn tệ hơn trong những năm vừa qua. Theo Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU), từ 2013 – 2017, sự chênh lệch tăng từ 17% lên 24%. Indonesia, một trong các quốc gia thành viên ASEAN, có độ chênh lệch kỹ thuật số về giới tính cao nhất trong khối kinh tế APEC.[28] Độ chênh lệch này không chỉ do nghèo đói nhưng còn vì thái độ và hạn chế mang tính thể chế và văn hóa – xã hội gây cản trở người nữ tiếp cận và truy cập internet.
Những con số thống kê nêu trên cho thấy rằng các tương quan liên vị được hình thành và duy trì bằng công nghệ kỹ thuật số có liên quan đến công bằng xã hội, vì khoảng cách trong xã hội được thể hiện dưới hình thức mới – sự khác biệt giữa người có điều kiện và không có điều kiện để tiếp cận với công nghệ. Khoảng cách kỹ thuật số là khoảng cách giữa “giàu thông tin” và “nghèo thông tin”. Do đó, nếu công nghệ là trung gian đầu tiên cho các tương quan liên vị của chúng ta, thì rất có thể chúng ta chỉ tương tác với những người có tình trạng tương tự về xã hội và công nghệ như chúng ta. Những người “nghèo kỹ thuật số” trở thành những người ở đâu đó mà chúng ta có lẽ chỉ biết qua các bản báo cáo hay tin tức, nhưng không có cơ hội để biết về họ cách cá vị sâu xa hơn. Vì vậy, khoảng cách kỹ thuật số cản trở tiềm năng đưa mọi người thuộc mọi bối cảnh lại gần nhau của internet, nhất là ở lục địa Á châu.
Kết luận
Bài viết này đào sâu hai khía cạnh cơ bản của thần học mạng ngang qua phần thảo luận về tương quan của con người với Chúa, với anh em đồng loại, và những tương quan này được thông tri và biến đổi thế nào trong môi trường kỹ thuật số. Những nội dung này cho thấy internet và thần học mạng tạo điều kiện nhận thức về sự hiện diện của Thiên Chúa theo nghĩa ẩn dụ, không giới hạn Ngài trong thời gian lẫn không gian. Trong khi khoa học với những khám phá về thời gian và không gian dường như loại trừ khả năng có thiên đàng như một nơi chốn xa xôi nào đó và khiến cho tín ngưỡng bình dân trở nên phi lý, thì công nghệ mới với không gian mạng được tạo ra bởi những con số không đụng chạm được, lại cho chúng ta thấy rằng sự hiện diện là có thể xảy ra, ngay cả khi không có những tính chất vật lý theo yêu cầu của khoa học truyền thống. Hình ảnh về Thiên Chúa trở nên phong phú hơn cho những người mong muốn tìm hiểu về Ngài, bởi lẽ nhận thức về Chúa thế nào không nhất thiết được truyền lại từ một nguồn tài liệu chính thức duy nhất của Giáo hội hay được viết ra theo phương pháp sư phạm của một mục tử duy nhất, nhưng đến từ vô số nguồn chính thống lẫn không chính thống. Thêm vào ảnh hưởng từ các dung mạo truyền thống, nhận thức của một người về Chúa và mối tương quan với Ngài có thể chịu ảnh hưởng bởi các bài viết của những thần học gia chuyên môn và cả người viết blog nghiệp dư, các bài đăng của Đức Giáo Hoàng trên Twitter cũng như chứng từ của một người bạn trên truyền thông xã hội. Giống như kỷ nguyên kỹ thuật số xác nhận thực tế rằng Thiên Chúa không bị giới hạn trong bất cứ lãnh vực cụ thể nào, nó cũng làm cho việc đóng khung Chúa trong bất kỳ tín điều hay học thuyết cụ thể nào trở nên khó khăn hơn bao giờ hết.
Tương tự như các biên giới bao quanh Chúa, dù là thực hay tưởng tượng, đã được loại bỏ thế nào bởi môi trường kỹ thuật số, các biên giới truyền thống quanh các mối tương quan liên vị cũng được biến đổi. Trong khi mô hình của Chúa Giêsu về người thân cận không bị bất cứ phương tiện nào loại bỏ, thì thời đại kỹ thuật số cho chúng ta thấy tình thân không chỉ vượt trên điều kiện xã hội, văn hóa và tôn giáo, nhưng còn siêu vượt cả không gian vật lý và tự thể hiện trên không gian mạng bằng những cách rất chân thực và ý nghĩa. Không thể phủ nhận rằng những tương quan liên vị được nuôi dưỡng thực sự cần phải có một số mức độ biểu hiện. Như đã được chứng minh, khi được sử dụng cách nghèo nàn, môi trường kỹ thuật số sẽ cô lập con người và tạo ra một hình thức thoát ly; còn nếu được sử dụng cách khôn ngoan, nó lại trở thành những công cụ vô cùng hữu hiệu cho con người thực hiện ước vọng sâu xa nhất là được hiệp thông với người khác.
Đối với người dân trong bối cảnh châu Á, môi trường kỹ thuật số có tiềm năng tác động đến mối tương quan của họ với Thiên Chúa và với người khác cách sâu xa. Là thành phần tôn giáo thiểu số trong lục địa rộng lớn của các tôn giáo lớn trên thế giới, sống chung với những người thuộc các tín ngưỡng khác, việc tìm hiểu về Chúa và nhận thức về Ngài của người châu Á sẽ được phong phú hóa nhờ những gì internet cung cấp, thêm vào những điều kiện hiện nay hình thành nên niềm tin và tâm linh của họ. Tuy nhiên, người châu Á phải nỗ lực để vượt qua thách đố về khoảng cách kỹ thuật số đang tách biệt người giàu – người nghèo, nam và nữ có nguy cơ làm mất đi tiềm năng của những tương quan liên vị. Thay vì giúp xóa bỏ những biên giới đang tồn tại giữa các cá nhân, khoảng cách kỹ thuật số có thể lại trở thành một hình thức khác làm người ta xa cách nhau.
Việc suy tư về những khía cạnh thần học đa dạng có nguồn cảm hứng và gắn liền với kỷ nguyên kỹ thuật số còn là một nhiệm vụ khá mới, nó sẽ phát triển khi thế hệ các thần học gia mới là “những người nhập cư kỹ thuật số”, và đặc biệt là những “cư dân kỹ thuật số” suy tư sâu xa hơn về ý nghĩa thần học của môi trường kỹ thuật số thay đổi không ngừng. Dù vậy, nghiên cứu này đã cố gắng góp phần vào tiến trình suy tư có hệ thống khi xem xét môi trường kỹ thuật số do công nghệ tạo ra đã tích hợp vào đời sống con người ra sao, từ đó kêu gọi và cổ võ cho nỗ lực hình thành nền thần học mạng hoặc điều gì đó tương tự.
HẾT
[1] Thuật
ngữ Web 2.0 được Tim
O'Reilly và
Dale Dougherty đưa ra tại Hội nghị O'Reilly
Media năm
2004. Những điển hình của Web 2.0 là mạng xã hội,
blog, wiki, folksonomies, web chia sẻ video, các dịch vụ lưu trữ, các ứng dụng Web và mashup
[2]
Wikipedia cung cấp một danh sách vô tận những mạng xã hội đang hiện hành hoặc
không còn tồn tại trên toàn thế giới, https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_social_networking_trang
webs.
[3] Brett
McCraken, “The Separation of Church and Status: How Online Social Networking
Helps and Hurts the Church,” Princeton Theological Review 17, No. 2
(2010): 26
[4] Ibid., 27
[5] Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI, “Sứ điệp ngày Thế giới Truyền thông 2009,” http://w2.vatican.va/content/benedict-xvi/en/messages/communications/documents/hf_ben-xvi_mes_20090124_43rd-world-communications-day.pdf.
[6] Ibid.
[7] Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI, “Sứ điệp ngày Thế giới Truyền thông 2011,” https://w2.vatican.va/content/benedict-xvi/en/messages/communications/documents/hf_ben-xvi_mes_20110124_45th-world-communications-day.html.
[8] Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II, “Sứ điệp ngày Thế giới Truyền thông 2002,” http://w2.vatican.va/content/john-paul-ii/en/messages/communications/documents/hf_jp-ii_mes_20020122_world-communications-day.html.
[9] Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI, “Sứ điệp ngày Thế giới Truyền thông 2011.”
[10] Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI, “Sứ điệp ngày Thế giới Truyền thông 2010,” https://w2.vatican.va/content/benedict-xvi/en/messages/communications/documents/hf_ben-xvi_mes_20100124_44th-world-communications-day.html.
[11] Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI, “Sứ điệp ngày Thế giới Truyền thông 2013.”
[12] Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI, “Sứ điệp ngày Thế giới Truyền thông 2009.”
[13]
Wikipedia, “Foursquare,” https://en.wikipedia.org/wiki/Foursquare.
[14]
Wikipedia, “Gowalla,” https://en.wikipedia.org/wiki/Gowalla.
[15] Ibid.
[16]
Spadaro, Cybertheology, 33.
[17] Ibid., 34
[18] Ibid.
[19] Theo
Wikipedia, “Karen” là từ mang tính tiêu cực
được dùng ở Hoa Kỳ và các quốc gia nói tiếng Anh, để nói về một người nữ yêu cầu
hay đòi hỏi điều gì vượt quá sự hợp lý hoặc cần thiết. Thường là người nữ da trắng
dùng vị thế xã hội của mình để đòi hỏi cho mình những điều không thỏa đáng. https://en.wikipedia.org/wiki/Karen_(pejorative)#:~:text=Karenper
cent20isper cent20aper cent20pejorativeper cent20term,atper cent20theper
cent20expenseper cent20ofper cent20others.
[20] "Tips for Lenin Standing up to a San Diego
Karen," https://www.gofundme.com/f/tips-for-lenen-standing-up-to-a-san-diego-karen
[21] Luke
10:33-34 (NIV).
[22] Đức
Thánh Cha Phanxicô, “Sứ điệp ngày Thế giới Truyền thông 2014,” https://w2.vatican.va/content/francesco/en/messages/communications/documents/papa-francesco_20140124_messaggio-comunicazioni-sociali.html.
[23] Đức
Thánh Cha Biển Đức XVI, “Sứ điệp ngày Thế giới Truyền thông 2011.”
[24] We Are
Social, “Digital use around the world in July 2020,” https://wearesocial.com/blog/2020/07/digital-use-around-the-world-in-july-2020.
[25] “Sử dụng
Internet ở châu Á, 31 tháng Năm năm 2020” https://www.internetworldstats.com/stats3.htm.
[26] “Chỉ số
sẵn sàng kết nối NRI năm 2019 của các quốc gia,” https://networkreadinessindex.org/nri-2019-countries/#complete-ranking.
[27] “Nỗ lực
xóa bỏ khoảnh cách kỹ thuật số theo giới tính ở châu Á,” Web Foundation (3
April 2020), https://webfoundation.org/2020/04/working-towards-closing-the-digital-gender-gap-in-asia/
[28] “Khoảnh
cách kỹ thuật số theo giới tính ngày càng rộng,” Bangkok Post (11 May 2020), https://www.bangkokpost.com/opinion/opinion/1915812/digital-gender-divide-is-getting-wider