LM Anthony Lê Đức, SVD
Vì là con út
trong gia đình có nhiều anh chị em nên mãi đến khi vào đại học tôi mới lần đầu
tiên tự đi chợ nấu cơm, tự mình tính toán chi phí sinh hoạt cho mỗi kỳ học để
không bị thiếu hụt. Tôi vẫn nhớ khi lần đầu tiên nấu cơm, tôi phải gọi điện hỏi
mẹ nên đổ bao nhiêu nước cho vừa. Khác với hầu hết các bạn sinh viên năm I, tôi
không lưu trú trong ký túc xá của trường đại học, nhưng chọn thuê một căn hộ để
ở chung với một người quen. Anh ấy là sinh viên năm thứ III, cũng là người gốc
Việt đang theo học ngành Kỹ sư vi tính.
Cuộc sống tự
lập của tôi không chỉ bao gồm những công việc mới mà tôi phải tự đảm trách hằng
ngày, những kiến thức mới mà tôi được học trong môi trường đại học, hoặc những
mối quan hệ mới mà tôi có được, mà còn liên quan rất nhiều đến việc tiếp cận
với công nghệ kỹ thuật số ở các khía cạnh hoàn toàn mới lạ đối với tôi. Năm
1994, khi bước vào đại học cũng là lần đầu tiên tôi được sở hữu một tài khoản
email do trường cấp riêng cho mỗi sinh viên. Qua địa chỉ email đó, tôi có thể
liên lạc dễ dàng với các giáo sư, các bạn học cùng trường cũng như những người
bạn đang học ở các trường đại học khác. Khi ở trường tôi có thể vào các thư
viện hoặc các phòng vi tính để kiểm tra và gửi email đi đến những người thân
quen. Khi ở căn hộ, tôi có thể dùng điện thoại bàn và modem để nối kết
internet. Vì thế, việc liên lạc với người thân và bạn bè rất thuận lợi, giúp
cho tôi có cái cảm giác “tuy xa mà gần,” nên không mấy nhớ nhà hay những người
bạn cũ.
Năm 1994
cũng là một cột mốc quan trọng trong lịch sử của công nghệ internet, vì đó là
thời điểm trình duyệt web Netscape Navigator được ra đời. Mặc dù Mạng lưới toàn
cầu (World Wide Web) đã xuất hiện từ năm 1990, nhưng mãi đến cuối năm 1994 mới
có một trình duyệt web được phổ biến rộng rãi với những công nghệ mới, nhờ đó
mà việc duyệt web hiệu quả và thú vị hơn. Thời gian đầu, các sản phẩm của
Netscape đã thống trị thị trường trình duyệt web tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sau khi
công ty Microsoft trình làng phần mềm Internet Explorer với những phát minh
mới, Netscape bắt đầu mất đi thị phần và tiếp tục giảm dần khi thị trường trình
duyệt web ngày càng cạnh tranh khốc liệt hơn do có nhiều sản phẩm mới ra đời.
Đỉnh cao của Netscape là năm 1995, khi nó chiếm lĩnh 90% thị trường. Một số nhà
xã hội học lấy năm 1995 là năm đầu tiên của thế hệ “Igen” (sinh từ năm
1995-2012) vì họ cho rằng sự ra đời của Netscape đã khởi đầu một kỷ nguyên mới với
nhiều tác động mạnh mẽ trên đời sống, tính cách và tâm sinh lý của thế hệ sinh
ra vào những năm đó, đặc biệt ở các quốc gia có ngành công nghệ phát triển.
Tôi không
thuộc thế hệ sinh năm 1995, nhưng tôi đã làm quen với Netscape ngay khi nó được
giới thiệu cho các cơ sở giáo dục trên toàn quốc. Thời gian đầu, phần mềm này
cũng được công ty sản xuất cho người dùng tải miễn phí. Vì thế, mặc dù tôi theo
học khoa Sinh học phân tử tế bào (Molecular
Cell Biology), nhưng nhờ có người bạn ở cùng phòng học chuyên ngành Kỹ sư
vi tính nên anh đã chỉ cho tôi cách sử dụng Netscape. Thậm chí anh ấy còn giúp
tôi tạo một trang web cá nhân để tôi tự giới thiệu về mình. Kể từ đó, tôi đã
nhanh chóng “nhập cư” vào thế giới mạng và ngày càng hòa nhập sâu hơn vào thế giới
kỹ thuật số. Các sinh hoạt và mối tương quan của tôi ngày càng được định hình,
hỗ trợ và duy trì bởi thứ công nghệ hiện đại và vô cùng hấp dẫn này.
Vào những
năm giữa thập niên 1990, lúc đó công nghệ kỹ thuật số đã đưa tôi đến với rất
nhiều thứ mà trước đó tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ được trải nghiệm. Công nghệ
thông tin và truyền thông đã tạo điều kiện cho tôi có thể tham gia vào nhiều
cuộc thảo luận sôi nổi trên các diễn đàn newsgroup
mà tôi quan tâm. Nó đã giới thiệu đến tôi nhiều cuốn sách cũng như tài liệu học
tập quan trọng có sẵn trong thư viện của trường UC Berkeley hoặc ở các trường
đại học khác trên toàn nước Mỹ. CNTT-TT cũng đã mang lại cho tôi nhiều mối
tương quan thú vị với những người gặp gỡ trên mạng dù chúng tôi chưa bao giờ
một lần nhìn thấy mặt nhau ở đời thực. Nhưng trên hết, công nghệ kỹ thuật số
chính là công cụ đã đưa tôi đến với Dòng Truyền Giáo Ngôi Lời. Lần đầu tiên tôi
biết đến Dòng Ngôi Lời là vào năm 1995, khi tôi đọc được một bài giới thiệu về
Dòng trên diễn đàn soc.culture.vietnamese.
Đây là một trong những hàng nghìn newsgroup
được tạo nên để bàn thảo về mọi đề tài mà người ta quan tâm. Vốn là một người
trẻ lớn lên tại Hoa Kỳ nhưng phần nào có “tâm hồn” Việt Nam nên tôi thường
xuyên vào diễn đàn này để đọc các tin tức cũng như theo dõi và tham gia vào các
đề tài được các thành viên bàn luận.
Nội dung của
bài viết về Dòng Ngôi Lời trên diễn đàn soc.culture.
vietnamese khi đó có đề cập đến một trường đại học tại bang Iowa, Hoa Kỳ
đang có rất nhiều sinh viên người Việt Nam theo học. Bài viết mô tả, trên thực
tế sinh viên gốc Việt chiếm phần đa số sinh viên của trường. Thông tin này
khiến cho tôi khá bất ngờ và hiếu kỳ vì ở UC Berkeley cũng có nhiều sinh viên Việt
Nam, nhưng chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong toàn bộ sinh viên của trường. Tôi
quyết định gửi email đến văn phòng của trường để tìm hiểu thêm thông tin, không
phải vì tôi có nhu cầu muốn chuyển nơi học, nhưng đơn giản vì muốn biết tại sao
một trường đại học ở Mỹ mà lại có nhiều sinh viên Việt Nam đến như vậy.
Không lâu
sau khi gửi email, tôi nhận được phản hồi từ văn phòng của trường. Người gửi
điện thư xin địa chỉ để gửi các tài liệu về trường đến cho tôi qua đường bưu
điện. Nhận được các tài liệu và sau khi đọc qua, tôi mới được biết đó không
phải là một trường đại học thông thường, nhưng là một cơ sở chuyên đào tạo các
chủng sinh thuộc một dòng tu có tên là Dòng Ngôi Lời (Society of the Divine
Word). Sau này tìm hiểu thêm tôi cũng biết lý do trong trường đa số người theo
học là người Việt vì vào thời điểm đó, Dòng Ngôi Lời tích cực tuyển ơn gọi
trong cộng đồng Việt Nam, vốn có nhiều ơn gọi tu trì.
Ngoài việc
gửi tài liệu về trường cho tôi thì Cha Gus Wall, linh mục đặc trách Văn phòng
Ơn gọi của Dòng Ngôi Lời, cũng đã liên lạc và hẹn gặp tôi ở Berkeley để làm
quen. Cha Gus mới trở lại Hoa Kỳ sau một thời gian truyền giáo tại Kenya và
được bề trên bổ nhiệm phụ trách Văn phòng Ơn gọi. Sau khi nhận được email của
tôi, ngài đã liên lạc và hẹn tới gặp tôi trong một chuyến đi đến California.
Tôi sẵn sàng nhận lời và hẹn gặp ngài ở một quán cà phê gần trường mà tôi
thường xuyên đến uống cà phê và học bài. Trong lần gặp gỡ đó, ngài đã chia sẻ
cho tôi biết nhiều hơn về Dòng Ngôi Lời, sứ mạng và hoạt động của dòng trên thế
giới cũng như linh đạo của dòng. Ngài cũng kể cho tôi nghe kinh nghiệm truyền
giáo của ngài tại châu Phi. Mặc dù tôi rất ấn tượng và thích thú về những gì
Cha Gus chia sẻ, nhưng tôi cũng thẳng thắn trình bày với ngài rằng, hiện tôi
đang học năm thứ II đại học, khoa Sinh học phân tử tế bào. Người ta hay gọi
khoa này là khoa “pre-med” (tiền y
khoa) vì nó chuẩn bị sinh viên cho việc xin vào trường y sau khi tốt nghiệp. Kế
hoạch của tôi (cũng như của gia đình tôi) là sau khi tốt nghiệp chương trình cử
nhân, tôi sẽ xin vào trường y, làm những gì cần thiết để trở thành một bác sĩ y
khoa trong tương lai. Trước những trình bày của tôi, Cha Gus không có những lời
khuyên thay đổi kế hoạch hay chuyển hướng. Ngài khuyên tôi cầu nguyện, tìm hiểu
thêm về những gì Chúa muốn cho tôi và hãy tiếp tục học theo chương trình mà tôi
đã đề ra.
Tôi đã làm
theo lời khuyên của Cha Gus. Tôi vẫn theo học khoa Sinh học phân tử tế bào, vẫn
tham gia vào các hoạt động, đặc biệt là những thứ mà tôi nghĩ sẽ giúp cho đơn
xin vào trường y của tôi nổi trội hơn. Ngoài ra, tôi còn đăng ký học thêm khoa
thứ hai là Á châu học, một phần vì tôi thích thú với lĩnh vực này. Bởi lẽ, tôi
tự nghĩ tốt nghiệp với hai bằng cử nhân sẽ giúp cho hồ sơ của tôi sáng giá hơn
trong hàng nghìn bộ hồ sơ mà các trường y nhận được. Phần Cha Gus, ngài vẫn làm
công việc của ngài được hội dòng đã trao phó. Ngài vẫn thực hiện các chuyến đi
dài hàng ngàn cây số khắp các bang của nước Mỹ rộng lớn để gặp gỡ và đồng hành
với những người trẻ đang tìm hiểu về ơn gọi của mình. Mỗi lần ngài có chuyến đi
California, ngài lại gọi điện thoại lấy hẹn để đến thăm tôi. Tôi luôn gặp ngài
ở một trong hàng chục quán cà phê gần trường để nói chuyện cho tự nhiên.
Mọi thứ cứ
diễn ra như vậy suốt thời gian tôi theo học đại học. Đến kỳ học cuối trước khi
tốt nghiệp, có lẽ vì sự kiên trì của Cha Gus và có lẽ một phần vì tôi không
thực sự hứng thú với ngành y cũng như quá trình đầy căng thẳng để xin vào được
một trường y; phần khác vì trong tôi có những thao thức hoài bão mới cho cuộc
sống nên tôi quyết định thực hiện một việc là bỏ ra một cuối tuần để đi thăm
ngôi trường mà đa số người theo học là người Việt Nam như từng được đăng trên
mạng. Kết quả của chuyến đi bất ngờ đó là bây giờ tôi đã trở thành tu sĩ của
Dòng Ngôi Lời với hơn 20 năm sống trong dòng và trải qua 15 năm truyền giáo tại
Thái Lan. Mọi thứ dường như bắt đầu với một email được gửi đi vì sự hiếu kỳ,
nhưng chính sự hiếu kỳ đó đã dẫn tôi tới một cuộc hành trình hoàn toàn khác với
những gì tôi đã từng mường tượng về cuộc sống và tương lai của mình. Sau này,
tôi cũng được cho biết rằng tôi là người đầu tiên liên lạc với Dòng Ngôi Lời
tại Hoa Kỳ qua phương tiện email. Công nghệ này chính là cầu nối đưa tôi tới
với ơn gọi truyền giáo, và nó cũng chính là một trong những phương tiện mà Dòng
Ngôi Lời cũng như tất cả các hội dòng khác ngày nay đang sử dụng để quảng bá ơn
gọi tu trì đến những người mang thao thức tìm cho mình một lối đi trong cuộc
sống.
Công nghệ kỹ
thuật số không chỉ đã đưa tôi đến với đời sống tu trì mà nó còn đóng vai trò
quan trọng trong mục vụ truyền giáo của tôi suốt thời gian qua. Từ năm 2006 tôi
bắt đầu viết blog để chia sẻ kinh nghiệm truyền giáo của mình. Năm 2010 tôi bắt
đầu sử dụng truyền thông mạng xã hội khi nhận thấy nền tảng này bổ ích cho sứ
vụ của mình tại Thái Lan. Bất kể trong mục vụ giáo xứ tại vùng quê ở Đông bắc
Thái Lan, hay mục vụ di dân Việt Nam tại Bangkok, mạng xã hội đã trở nên một
công cụ không thể thiếu để quảng bá sứ vụ, truyền tải các thông tin bổ ích cho
cộng đồng, nối kết các tấm lòng với nhau và xây dựng tình tương thân tương ái
giữa người với người. Nếu chia sẻ về hết những câu chuyện liên quan đến blog và
mạng xã hội trong mục vụ truyền giáo suốt 15 năm qua, tôi có thể viết ra được
thành nhiều tập sách dày hàng trăm trang.
Ở đây tôi
không muốn làm mất thời giờ của độc giả với những trải nghiệm dài dòng, tôi chỉ
muốn chia sẻ mục đích tại sao tôi thực hiện tập sách có tựa đề “Sứ vụ của Giáo hội trong kỷ nguyên kỹ thuật
số” mà quý vị đang cầm trong tay. Từ đâu mà tôi có ý tưởng cho ra đời tập
sách với những bài viết xoay quanh đề tài Công nghệ Thông tin và Truyền thông
Kỹ thuật số. Nếu tôi chỉ là người luôn sử dụng CNTT-TT trong đời sống và trong
công việc mục vụ thì chắc hẳn tôi cũng sẽ không khác bao nhiêu người trên thế
giới ngày nay. Công nghệ kỹ thuật số đã trở thành một thứ không thể thiếu được
trong cuộc sống hằng ngày vì nó đã đi vào mọi ngõ ngách của đời sống cá nhân và
xã hội. Tuy nhiên, việc sử dụng một cái gì đó và việc bàn luận về nó một cách
khoa học là hai hoạt động hoàn toàn khác nhau. Không phải cứ biết nói một ngôn
ngữ nào đó là có thể dạy cho người khác cũng nói được ngôn ngữ đó, bởi vì việc
sử dụng ngôn ngữ cách thành thạo và việc truyền đạt kiến thức cho người khác để
họ cũng có thể nói, nghe, đọc và viết được đòi hỏi những kỹ năng khác nhau.
Lý do tôi
thực hiện tập sách này bắt đầu từ năm 2014 khi tôi tình cờ gặp được Cha
Franz-Josef Eilers, SVD – một chuyên gia kỳ cựu trong lĩnh vực truyền thông xã
hội – tại một chương trình hội thảo được Tỉnh dòng Ngôi Lời Úc châu tổ chức tại
Melbourne. Vốn là người Đức, nhưng Cha Eilers đã có thời gian dài giảng dạy
trong Học viện Hoàng gia và Giáo hoàng Học
viện Santo Tomas tại Philippines. Ngài cũng đã từng dạy học tại Đại học Giáo
Hoàng Gregorian và Salesian tại Rôma, và có nhiều năm là thư ký Văn phòng
Truyền thông Xã hội của Hội đồng Giám mục Á châu (FABC-OSC). Vào năm 1999, khi
đang là thư ký của FABC-OSC, Cha Eilers đã thành lập Trung tâm Nghiên cứu Á
châu về Tôn giáo và Truyền thông Xã hội (Asian Research Center for Religion and
Social Communication - ARC) với mục đích cổ võ và phổ biến các công trình
nghiên cứu và đối thoại liên tôn trong lĩnh vực tôn giáo và truyền thông xã hội
tại Á châu. Thời gian đầu, ARC hoạt động như một phần của FABC-OSC; nhưng sau
đó, Trung tâm đã được tách ra khỏi FABC-OSC và trở nên một tổ chức độc lập, có
văn phòng tại trường Đại học St. John’s, Bangkok, Thái Lan và tại Manila,
Philippines.
Trong cuộc
hội thảo tại Úc, Cha Eilers được mời để thuyết trình về vai trò của truyền
thông xã hội trong sứ mạng truyền giáo của Giáo hội ngày nay. Vào giờ giải lao
của cuộc hội thảo, tôi tình cờ đứng gần ngài nên chào và bắt chuyện với ngài.
Ngài cho tôi biết Trung tâm ARC đang chuẩn bị tổ chức một chương trình hội thảo
tại Bangkok vào tháng 10/2014 về đề tài “Truyền thông Tôn giáo tại Á châu trong
kỷ nguyên kỹ thuật số”. Ngài mời tôi tham gia hội thảo và thuyết trình vì tôi ở
Bangkok nên thuận tiện đi lại. Tôi nhận lời mời của ngài nhưng cũng nói rằng,
tôi không biết sẽ thuyết trình đề tài gì vì lĩnh vực truyền thông kỹ thuật số
không thuộc chuyên môn của tôi. Tới thời điểm đó, hầu hết những gì tôi nghiên
cứu chỉ xoay quanh lãnh vực đạo đức môi trường sinh thái trong các hệ thống tôn
giáo. Luận án tiến sĩ của tôi với tựa đề “Theravada
Buddhist Environmental Spirituality: Relational and Developmental Dimensions in
Promoting Environmental Well-Being” (Các chiều kích tương quan và phát
triển trong linh đạo về môi trường sinh thái trong Phật giáo Nam Tông) cũng rơi
vào lãnh vực như đã nói trên mà tôi đặc biệt quan tâm và muốn dấn thân nghiên
cứu.
Cha Eilers
gợi ý cho tôi đề tài “Suy tư thần học
trong bối cảnh kỹ thuật số”. Ngài nói đây là một đề tài rất mới, chưa có
nhiều người nghiên cứu, nhưng lại chứa đựng nhiều điều cần phải được tìm hiểu
trong thời đại mà công nghệ kỹ thuật số ngày càng thâm nhập vào mọi khía cạnh
của đời sống con người – kể cả đời sống tâm linh. Tôi lại thêm bối rối khi nghe
gợi ý của Cha Eilers vì chuyên môn của tôi không phải là Thần học mà là Tôn
giáo học. Ngoài những môn thần học mà tôi từng học ở Catholic Theological Union
(Chicago, IL, USA) trước khi chịu chức linh mục thì tôi chưa có gì chuyên sâu
về thần học để có thể thuyết trình về đề tài này, đặc biệt là trong bối cảnh của
công nghệ kỹ thuật số. Mặc dù rất do dự, nhưng vì không muốn từ chối lời mời
của một vị linh mục và một chuyên gia đáng kính 82 tuổi, nên tôi hứa sẽ tìm
hiểu thêm về đề tài mà Cha Eilers đưa ra.
Sau khi trở
lại Thái Lan từ cuộc hội thảo tại Úc, tôi đã bắt đầu tìm đọc các tài liệu về
truyền thông kỹ thuật số cũng như các tài liệu của Giáo hội về truyền thông xã
hội, đặc biệt về truyền thông mới, nhằm tiếp thu thêm kiến thức về đề tài
nghiên cứu. Sau một thời gian tìm hiểu và suy tư về đề tài tôn giáo trong bối
cảnh công nghệ kỹ thuật số, tôi cảm thấy ngày càng quan tâm về những cơ hội và
thách đố mà thực trạng mới đặt ra cho xã hội cũng như Giáo hội Công giáo. Càng
đi sâu vào vấn đề tôi càng nhận ra những phát triển trong công nghệ kỹ thuật số
không đơn thuần chỉ là những gì mang đến những thay đổi trong đời sống kinh tế
- xã hội mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả các chiều kích của cuộc sống con
người; tác động mạnh mẽ đến cách chúng ta tương quan với những người xung
quanh, với môi trường, ngay cả đối với Thiên Chúa nữa.
Sau lần tham
dự chương trình hội thảo quốc tế của ARC, tôi được Cha Eilers mời cộng tác lâu
dài với Trung tâm trong vai trò là Phó giám đốc điều hành. Trong công việc mới,
tôi có cơ hội tiếp xúc nhiều hơn với các chuyên gia đến từ các tôn giáo bạn.
Qua các cuộc hội thảo và bài viết của các học giả từ Ấn giáo, Hồi giáo, Phật
giáo, Kỳ Na giáo… tôi có thể nhận thấy những tác động trên các tôn giáo từ công
nghệ kỹ thuật số là mối quan tâm lớn đối với tất cả các truyền thống tôn giáo
trên thế giới, không chỉ riêng Kitô giáo. Từ ngày tôi được bổ nhiệm vào vị trí
Tổng biên tập của Tạp chí học thuật “Tôn giáo và Truyền thông Xã hội” (Religion
and Social Communication) thuộc Trung tâm ARC, các bài viết mà các tác giả
gửi đến cho Ban biên tập cũng chứng minh rằng, đề tài tôn giáo và công nghệ kỹ
thuật số tiếp tục chiếm rất nhiều thời gian và chất xám của những người làm
công tác nghiên cứu hiện nay trên toàn cầu.
Tương lai
của xã hội và Giáo hội trước sự tiến triển vô định của công nghệ hiện đại cũng đã
trở thành một trong những đề tài mà tôi dành sự quan tâm lớn và nhiều thời gian
để tìm hiểu trong những năm gần đây. Tập sách mà quý vị cầm trong tay bao gồm
một số bài viết mà tôi đã thực hiện thời gian qua. Tất cả những bài viết trong
sách đã được lược dịch và biên soạn lại từ những bài viết bằng tiếng Anh.
Chương 1-3 được biên soạn lại từ một bài viết mà tôi đã cộng tác với hai linh
mục Mi Shen (Trung Quốc) và Joshy Xavier, SJ (Ấn Độ) để thực hiện cho Ban Kỹ
thuật số của Tổ chức Truyền thông Công giáo SIGNIS mà chúng tôi là thành viên
của ban. Riêng những bài viết còn lại trong tập sách đã từng được phát hành
trong các tạp chí học thuật hoặc các tập sách nghiên cứu chuyên đề đã được phát
hành thời gian qua. Tuy nhiên, tôi đã cố gắng biên tập và chỉnh chữa lại sao
cho phù hợp hơn với đối tượng độc giả người Việt Nam.
Như tôi đã
chia sẻ ở trên, tôi lớn lên tại Hoa Kỳ nên khả năng tiếng Việt gặp nhiều hạn
chế. Vì thế có được tập sách này, tôi đã phải nhờ vào sự giúp đỡ của một số
linh mục và tu sĩ trong việc dịch thuật và chỉnh sửa bài viết. Tôi xin gửi lời
cảm ơn sâu sắc và chân thành đến tất cả những người đã hy sinh thời giờ và công
sức hỗ trợ tôi trong quá trình thực hiện tập sách này. Đọc qua tựa đề của mỗi
chương trong phần Mục lục, quý vị có thể dễ dàng nhận thấy các bài viết xoay
quanh chủ đề của tập sách. Ngoài ra, các bài viết này có thể được xem như là
những mảnh ghép trong rất nhiều mảnh ghép liên quan đến đề tài về Giáo hội và
bối cảnh kỹ thuật số. Vì thế, tôi không dám khẳng định rằng những bài viết này
đã khai thác và trình bày về chủ đề của tập sách một cách đầy đủ. Đúng hơn,
những bài viết cho thấy rằng đề tài mà tập sách muốn tìm hiểu và bàn luận còn
có quá nhiều điều cần được nghiên cứu, đào sâu suy tư và phân tích cặn kẽ hơn
nữa.
Tôi đang
viết những dòng chữ này vào những ngày cuối Mùa Vọng năm 2021, trong khi thế
giới đang hoang mang vì có thêm biến chủng mới của vi-rút corona. Biến chủng
mới với tên gọi Omicron xuất phát từ Nam Phi và hiện nay nó đã được phát hiện
tại nhiều quốc gia trên thế giới. Vừa qua, Bộ Y tế Thái Lan thông báo đã có
trường hợp nhiễm chủng mới đầu tiên tại nước này. Trước thông tin chủng Omicron
đã du nhập đến đất nước nơi tôi đang phục vụ, tôi đón nhận sự việc này một cách
bình thản, bởi lẽ tâm tình của Mùa Vọng đã giúp tôi trầm tĩnh hơn trước những
biến cố trong cuộc sống. Mặt khác, có lẽ vì người ta chưa có bằng chứng rõ rệt
cho thấy chủng mới này sẽ tàn phá nhiều hơn các chủng trước đây; hoặc cũng có
thể mỗi ngày tôi nghiệm cảm ra rằng chữ “đại” trong thuật ngữ “đại dịch” phần
nào phụ thuộc vào thái độ, tâm lý, và phản ứng của mỗi cá nhân và tập thể trước
những gì đang diễn ra cho nhân loại. Nếu chúng ta bình tĩnh hơn trước những
biến cố lớn nhỏ xảy đến mỗi ngày, dành thời giờ để suy tư và phân định về những
sự việc ấy một cách có hệ thống, chắc hẳn chúng ta sẽ nhận ra tính chất của vấn
đề một cách toàn diện hơn và biết tìm ra phương cách ứng phó khôn ngoan hơn.
Những thay
đổi nhanh chóng trong khoa học công nghệ cũng đòi hỏi nơi chúng ta một thái độ
bình thản để cân nhắc những cơ hội và thách đố cho đời sống vật chất cũng như
tinh thần của mỗi người chúng ta. Đối với Giáo hội, các vị lãnh đạo, thần học
gia và chuyên gia trong Hội Thánh cũng có trách nhiệm phải nhìn vào những biến
chuyển trong xã hội như những dấu chỉ thời đại cần được tìm hiểu và phân định
dưới ánh sáng của Tin Mừng, nhằm nắm bắt tất cả những cơ hội mà sự sáng tạo của
trí tuệ con người mang đến cho chúng ta; đồng thời, đáp ứng một cách kịp thời
và phù hợp với những thách đố mà Giáo hội phải đối phó trong kỷ nguyên mới.